Kính thưa các đồng chí lãnh đạo, nguyên lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; các ban, bộ, ngành, cơ quan Trung ương, Quân khu 5; các thành phố và tỉnh bạn!

Kính thưa Mẹ Việt Nam Anh hùng, Anh hùng lực lượng vũ trang Nhân dân, Anh hùng Lao động, các vị Tướng lĩnh!

Thưa các đồng chí lãnh đạo, nguyên lãnh đạo tỉnh Quảng Nam!

Thưa đại diện gia đình đồng chí Nguyễn Trác!

Thưa quý vị khách quý cùng toàn thể đồng bào, đồng chí!

Với tấm lòng thành kính, niềm tự hào và biết ơn; hôm nay, Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân tỉnh Quảng Nam trọng thể tổ chức Lễ kỷ niệm 120 năm ngày sinh đồng chí Nguyễn Trác - nguyên Bí thư Tỉnh ủy, Phó Bí thư xứ ủy Trung Kỳ - người chiến sĩ cộng sản, người con kiên trung của quê hương Quảng Nam.

Thay mặt Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân tỉnh Quảng Nam, tôi xin gửi tới các đồng chí lãnh đạo, nguyên lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, quý vị đại biểu, khách quý, thân nhân đồng chí Nguyễn Trác cùng toàn thể bà con Nhân dân lời chào trân trọng và lời chúc tốt đẹp nhất.

Kính thưa toàn thể đồng bào, đồng chí!

Trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước, Quảng Nam luôn được ghi nhận là vùng đất “địa linh, nhân kiệt”. Thiên nhiên khắc nghiệt, lịch sử lắm gian nan đã hun đúc nên truyền thống yêu nước, tính cách can trường của người xứ Quảng. Trên mảnh đất này, “Thời nào cũng có danh nhân, vùng nào cũng có nhiều bậc anh hào chí lớn” có nhiều đóng góp, cống hiến vẻ vang cho Tổ quốc và làm rạng rỡ quê hương. Đồng chí Nguyễn Trác là một trong những người tiêu biểu đó. 

Đồng chí Nguyễn Trác, bí danh Thiều, sinh ngày 4/11/1904, tại làng Hà Thanh, tổng Hạ Nông, phủ Điện Bàn, nay là làng Hà Tây, xã Điện Hòa, thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Cha là Nguyễn Chuẩn, mẹ là Trần Thị Cận. Gia đình có 10 anh chị em. Năm 1908, phong trào chống thuế nổ ra ở Quảng Nam và lan rộng khắp các tỉnh Trung Kỳ, gia đình đồng chí Nguyễn Trác đã tích cực tham gia phong trào này. 

Sau khi học hết năm thứ hai bậc trung học, tháng 6/1927, người thanh niên Nguyễn Trác đã thoát ly gia đình vào Sài Gòn - Gia Định và làm công nhân cho hãng buôn “Grands magasins Charner”. Tại đây, người thanh niên Nguyễn Trác bị bọn chủ bóc lột sức lao động thậm tệ. Chính vì vậy, cũng như những người làm công cho bọn thực dân ở đây hết sức bất bình và cùng tìm con đường đấu tranh để bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình. Đồng chí Nguyễn Trác đã được số anh em tiến bộ giác ngộ, tuyên truyền về cách mạng giải phóng con người, giải phóng giai cấp, đánh đuổi bọn thực dân, phong kiến. Cuối năm 1928, đồng chí Nguyễn Trác tham gia tổ chức Công hội đỏ ở hãng “Grands magasins Charner”. Thời gian này, hoạt động của tổ chức Công hội đỏ ở Sài Gòn phát triển mạnh do tác động trực tiếp của cuộc bãi công của công nhân xưởng Ba Son dưới sự lãnh đạo của đồng chí Tôn Đức Thắng. 

Đến đầu năm 1930, sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, Đảng bộ thành phố Sài Gòn được thành lập, đồng chí Nguyễn Trác tiếp tục được tuyên truyền, giác ngộ về tư tưởng, tôn chỉ, mục đích của Đảng Cộng sản. Qua nhiều lần thử thách, ngày 20/7/1930, đồng chí Nguyễn Trác được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam tại chi bộ hãng Charner - một chi bộ Đảng trực thuộc Thành ủy Sài Gòn do đồng chí Nguyễn Thanh An làm Bí thư. Đồng chí Nguyễn Trác được phân công làm Thư ký Chi hội Công hội đỏ. 

Cuối tháng 10/1930, đồng chí Nguyễn Trác được Thành ủy Sài Gòn chỉ định làm Bí thư chi bộ Charner thay đồng chí Nguyễn Thanh An. Trên cương vị Bí thư chi bộ, đồng chí Nguyễn Trác đã làm tốt công tác tuyên truyền, vận động và giác ngộ cho người lao động, bồi dưỡng tinh thần đấu tranh bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho họ, chống lại chế độ bóc lột của bọn chủ, vận động kết nạp hàng chục hội viên vào Chi hội. Đặc biệt, dưới sự lãnh đạo của chi bộ, các cuộc đấu tranh của công nhân đòi chủ hãng phát lương kịp thời trong dịp tết, chống đánh đập, chửi mắng công nhân đều đạt kết quả.

Dưới sự lãnh đạo của Chi bộ, ngày 21/01/1931, công nhân hãng Charner đấu tranh đòi cải thiện đời sống và đòi ngày làm việc 08 giờ. Nghi đồng chí Nguyễn Trác cầm đầu tổ chức việc rải truyền đơn, dán biểu ngữ trong hãng, chủ hãng đã bắt Nguyễn Trác ngay tại nơi làm việc và đưa về Sở mật thám Catinat; tại đây, bọn mật thám liên tục tra xét nhưng đồng chí quyết không khai. Tức tối trước thái độ cứng rắn của đồng chí, chúng đưa đồng chí về giam ở Khám Lớn (Sài Gòn). Sau hơn 02 năm giam cầm, tra tấn, bọn địch không khuất phục được tinh thần đấu tranh của đồng chí Nguyễn Trác và đến đầu tháng 5/1933, chúng mở phiên tòa xét xử đặc biệt và kết án 10 năm vì tội âm mưu lật đổ chính quyền, đày đi Côn Đảo. Ra Côn Đảo, đồng chí cùng các đồng chí bị giam tại đây tổ chức nhiều cuộc đấu tranh chống lại chế độ hà khắc của chốn địa ngục trần gian này và được cử làm Bí thư một chi bộ ở nhà tù Côn Đảo.

Trong lúc này, thực dân Pháp ra sức đàn áp phong trào cách mạng của Nhân dân ta. Nhà lao Côn Đảo mỗi ngày một đông người và phần lớn có mức án cao. Trước tình hình đó, việc tổ chức, tập hợp, đoàn kết đấu tranh chống lại chế độ hà khắc của nhà lao được đặt ra khẩn thiết hơn bao giờ hết. Trên cương vị Bí thư chi bộ, đồng chí Nguyễn Trác đã tích cực tập hợp anh em tù; tuyên truyền, vận động và giúp anh em nhận thức được đấu tranh cách mạng là đúng đắn, là cần thiết. Mặc dù bị bọn quản lao đàn áp dã man, nhưng các cuộc đấu tranh liên tục diễn ra và đạt kết quả lớn. Bằng khả năng tập hợp và tư duy chính trị của mình, đồng chí Nguyễn Trác được anh em tín nhiệm cử tham gia vào bộ phận hoạt động công khai ở nhà tù Côn Đảo. Đồng chí đã cùng với chi bộ nhà lao thành lập chi bộ bang II và được cử làm Bí thư chi bộ kiêm phụ trách ban đời sống bang II từ năm 1934 đến năm 1936.    

Tháng 7/1936, Mặt trận Bình dân lên nắm chính quyền ở Pháp và vận động thực hiện một số cải cách; trong đó, có một số chính sách tiến bộ. Để xoa dịu dư luận của các lực lượng cách mạng và tiến bộ ở Pháp, của Nhân dân thuộc địa, chính phủ Pháp đã ra lệnh “ân xá tù chính trị” ở Đông Dương và đưa về địa phương quản thúc. Nhờ đó, đồng chí Nguyễn Trác và nhiều đồng chí khác ở nhà tù Côn Đảo được trao trả tự do. 

Về đến quê nhà, đồng chí liên lạc ngay với các đồng chí vừa ra khỏi các nhà tù để tiếp tục hoạt động. Đồng chí cùng với các đồng chí Trịnh Quang Xuân, Trần Học Giới bí mật họp ở bãi cát trước nhà ga Đà Nẵng, lập ra Ủy ban vận động Đại hội Đông Dương của Quảng Nam. Ngày 20/9/1936, Ủy ban vận động Đại hội Đông Dương của Quảng Nam chủ trương báo tin về cuộc họp toàn kỳ Đại hội Đông Dương sắp họp tại Viện dân biểu Trung Kỳ ở Huế để cho anh em tù chính trị biết, ra Huế tham gia. Theo sự phân công của đồng chí Nguyễn Trác, một số đại biểu của tỉnh Quảng Nam đã tham gia tích cực vào cuộc họp này, bác bỏ dự thảo của những đại biểu thân Pháp. Nhân việc này, các đại biểu đảng bộ ở một số tỉnh Trung Kỳ đã họp bí mật ở Huế để bàn về những nhiệm vụ của cách mạng và cử ra Xứ ủy lâm thời Trung Kỳ. Đồng chí Nguyễn Trác được cử vào Xứ ủy viên và được phân công làm Bí thư Tỉnh ủy Quảng Nam. 

Để phổ biến nghị quyết của Trung ương Đảng, nghe đại biểu các phủ, huyện báo cáo tình hình tổ chức đảng, tổ chức quần chúng địa phương, cuối năm 1936, đồng chí Nguyễn Trác mời mỗi phủ, huyện một đại biểu về họp tại nhà đồng chí Nguyễn Ngọc Kinh tại huyện Hòa Vang. Dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Trác, hội nghị chủ trương phát triển thực lực Đảng, thực lực quần chúng, lập nhiều hội ái hữu, hội tương tế, nhóm đọc sách báo... tận dụng báo chí công khai đấu tranh theo khẩu hiệu của Mặt trận dân chủ, ủng hộ cuộc đấu tranh của công nhân ngành xe lửa. Hội nghị đã quyết định thành lập Ban Tỉnh ủy lâm thời gồm 07 đồng chí và cử đồng chí Nguyễn Trác làm Bí thư Tỉnh ủy. Qua quá trình công tác của mình, cuối năm 1937, đồng chí vinh dự được bầu làm Phó Bí thư Xứ ủy Trung Kỳ, kiêm Bí thư Tỉnh ủy Quảng Nam phụ trách các tỉnh từ Đà Nẵng trở vào. 

Trong thời gian làm Bí thư Tỉnh ủy lâm thời Quảng Nam, được sự chỉ đạo trực tiếp của Xứ ủy, đồng chí Nguyễn Trác đã cùng tập thể Tỉnh ủy lãnh đạo nhiều phong trào đấu tranh, đã thu hút đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia, như: Hưởng ứng phong trào Đông Dương đại hội, lấy chữ ký kiến nghị gửi cho phái đoàn nghị sĩ Pháp sang Đông Dương điều tra tình hình; vận động bầu cử Phan Thanh vào Viện dân biểu Trung Kỳ khóa III, để tang đồng chí Thái Thị Bôi… tạo bước phát triển mới cho phong trào cách mạng trong tỉnh.

Ngày 25/02/1938, Đảng ta có thông báo về chủ trương đấu tranh chống thực dân Pháp tăng thuế, Tỉnh ủy Quảng Nam tiếp thu và triển khai chủ trương này. Giữa năm 1938, Khâm sứ Trung Kỳ và Nam triều đưa ra bản dự án tăng thuế và buộc Viện Dân biểu phải thông qua. Mượn tiếng cải cách, chúng tăng thuế đánh vào dân nghèo và tầng lớp trung sản. Dưới sự lãnh đạo của Tỉnh ủy Quảng Nam, phong trào lấy chữ ký tập thể, mít tinh quần chúng phản đối lệnh tăng thuế nổi lên khắp nơi trong tỉnh. Bọn thống trị ở Quảng Nam đã tiến hành bắt bớ cán bộ, đảng viên mà chúng cho là tổ chức và lãnh đạo phong trào chống lệnh tăng thuế. Ngày 15/11/1938, đồng chí Nguyễn Trác bị địch bắt và kết án một năm tù, giam ở nhà lao Hội An và tăng lên 05 năm vì tội tham gia tổ chức đảng, âm mưu lật đổ chính quyền. Sau đó, chúng đày đi các nhà lao Quy Nhơn, Buôn Ma Thuột. Đến năm 1943, đồng chí được mãn hạn tù và bị đưa đi an trí ở Đắk Tô (Kon Tum). Tại đây, đồng chí được phân công làm Bí thư chi bộ trại an trí Đắk Tô.

Sau khi được mãn hạn tù, tháng 7/1945, đồng chí Nguyễn Trác về đến Quảng Nam móc nối với cơ sở tiếp tục hoạt động. Đồng chí Nguyễn Trác và đồng chí Huỳnh Ngọc Huệ được phân công tổ chức lại Thành ủy và Thành bộ Việt Minh Đà Nẵng. Tối ngày 16/8/1945, Ủy ban khởi nghĩa thành phố Đà Nẵng được thành lập, đồng chí Nguyễn Trác được phân công làm Phó Chủ tịch Ủy ban khởi nghĩa, phụ trách quân sự, binh vận và tiếp quản Tòa án thành phố. Cuộc khởi nghĩa dành chính quyền của Nhân dân thành phố Đà Nẵng diễn ra nhanh chóng và thắng lợi. Với cương vị trọng trách của mình, đồng chí Nguyễn Trác đã hoàn thành nhiệm vụ. 

Sau khi khởi nghĩa dành chính quyền thắng lợi, đồng chí được bầu làm Ủy viên Quân sự và Ủy viên Tư pháp, Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời thành phố Đà Nẵng. Trên hai cương vị này, đồng chí đã cùng với tập thể lãnh đạo thành phố tổ chức lại lực lượng vũ trang, lấy vũ khí địch, tịch thu, trưng thu tài sản liên quan đến quân sự và bắt xét xử bọn Việt gian, tay sai của đế quốc trên địa bàn. 

Tháng 11/1945, đồng chí được phân công làm Chánh án Tòa án Quân sự khu vực Thuận Hóa, gồm 05 tỉnh từ tỉnh Quảng Trị vào đến tỉnh Quảng Ngãi. Sau đó, được điều động làm Công cáo Ủy viên Tòa án quân sự Liên khu 4. Trên cương vị công tác mới, đồng chí Nguyễn Trác đã cùng đơn vị lập nhiều thành tích xuất sắc trong việc điều tra, truy tố những đối tượng có hành vi phản cách mạng.

Với những thành tích đó, cuối năm 1950, đồng chí Nguyễn Trác được Bộ Tư Pháp cử kiêm chức Giám đốc Sở Tư pháp Liên Khu 4. Từ tháng 5/1954, đồng chí được Liên Khu ủy 4 chỉ định làm Trưởng Ban cán sự Tòa án Quân sự và Tòa án nhân dân Liên Khu 4. Trong thời gian công tác tại Tòa án, ngoài việc nghiêm chỉnh xử lý tốt các công việc đảm trách, đồng chí Nguyễn Trác còn thực hiện tốt công tác tổ chức lại hệ thống Tòa án từ cấp Liên Khu trở xuống, đảm bảo hoạt động có hiệu quả, góp phần trừng trị bọn tay sai, hỗ trợ cho cuộc kháng chiến chống Pháp.

Tháng 6/1954, đồng chí Nguyễn Trác được điều về công tác ở Bộ Tư pháp. Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp kết thúc thắng lợi, đồng chí Nguyễn Trác được Bộ Tư pháp cử làm Phó đoàn cán bộ Bộ Tư pháp về tiếp quản Hà Nội. Đến tháng 01/1955, đồng chí được Bộ Tư pháp cử làm Công tố Ủy viên Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội. Tháng 5/1955, đồng chí được Bộ Tư pháp cử Giám đốc Vụ hình hộ Bộ Tư pháp, phụ trách Đảng đoàn Bộ Tư pháp. Từ tháng 5/1958 đến tháng 10/1959, đồng chí được cử giữ chức Thứ trưởng Bộ Tư pháp, Bí thư Đảng đoàn; giai đoạn 1960 - 1966, đồng chí được cử giữ chức Phó Chánh án Tòa án nhân dân tối cao; đồng chí còn là đại biểu Quốc hội khóa II (1960 - 1964), đơn vị tỉnh Nghệ An. 

Đầu năm 1966, để đáp ứng yêu cầu xây dựng và cải tạo xã hội chủ nghĩa cũng như sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Ban Pháp chế Trung ương Đảng được thành lập. Ban Pháp chế Trung ương Đảng có 10 thành viên do đồng chí Trường Chinh làm Trưởng ban; đồng chí Nguyễn Trác được cử làm Ủy viên; sau đó, được phân công làm Phó Trưởng Ban Thường trực thay đồng chí Hoàng Quốc Việt chuyển công tác khác. 

Trong thời gian công tác tại Ban Pháp chế Trung ương, đồng chí Nguyễn Trác đã cùng tập thể lãnh đạo hoàn thành tốt các công việc đề ra và đạt được nhiều thành tích quan trọng, góp phần cùng toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta thực hiện thắng lợi sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Tháng 4/1979, đồng chí Nguyễn Trác được Đảng và Nhà nước cho nghỉ hưu theo chế độ và sinh hoạt với gia đình tại thành phố Hà Nội. Nghỉ hưu, sống với gia đình, đồng chí Nguyễn Trác luôn là tấm gương sáng về tinh thần và đạo đức cách mạng cho bà con khối phố. Do tuổi cao, sức yếu, đồng chí đã từ trần ngày 11/8/1986. 

Với những công lao đóng góp đó đồng chí được tặng thưởng Huân chương Hồ Chí Minh; Huân chương Độc lập hạng Nhất; Huy hiệu 40 năm tuổi Đảng và nhiều phần thưởng cao quý khác. Ngày 29/3/2013, Chủ tịch nước truy tặng Huân chương Sao vàng cho đồng chí Nguyễn Trác.

Kính thưa toàn thể đồng bào, đồng chí!

Tám mươi hai tuổi đời (1904 - 1986), 56 năm tuổi Đảng (1930 - 1986), 51 năm (1928 - 1979) hoạt động liên tục, oanh liệt và đầy nhiệt huyết, đồng chí Nguyễn Trác đã hiến dâng tất cả cho sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng và dân tộc ta. Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, đồng chí, đồng nghiệp và quần chúng đã từng sống, chiến đấu luôn dành những tình cảm trân trọng, quý mến với một cán bộ lãnh đạo, một chiến sĩ cộng sản kiên cường, luôn thể hiện tinh thần và ý chí cách mạng liên tục, bền bỉ. Trong quá trình xử lý công việc, đồng chí luôn giữ lập trường vững vàng, cương quyết trong mọi công việc; nêu cao tinh thần đoàn kết nội bộ và gắn bó mật thiết với quần chúng. Đồng chí Nguyễn Trác đã cùng với tập thể cấp ủy tổ chức thực hiện và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ chính trị được giao trong từng thời kỳ, góp phần cùng toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta thực hiện thắng lợi vẻ vang sự nghiệp cách mạng đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước.

Lịch sử cách mạng Việt Nam mãi khắc ghi công lao to lớn của đồng chí Nguyễn Trác - Người con kiên trung của quê hương Quảng Nam; người cán bộ tận tụy, công tâm; người cộng sản trọn nghĩa, vẹn tình. Kỷ niệm 120 năm ngày sinh đồng chí Nguyễn Trác, chúng ta rất đỗi tự hào, trân trọng và thành kính biết ơn người con ưu tú của dân tộc, của quê hương Quảng Nam, chúng ta càng thấu hiểu và khắc ghi những bài học cách mạng vô cùng quý giá cho công cuộc xây dựng, phát triển quê hương, đất nước hiện nay.

Kính thưa toàn thể đồng bào, đồng chí!

Kỷ niệm 120 năm ngày sinh đồng chí Nguyễn Trác (1904 - 2024) diễn ra trong không khí toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đang tích cực triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng và Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Quảng Nam lần thứ XXII và các nghị quyết, chỉ thị, kết luận, quy định về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng hệ thống chính trị; gắn với thực hiện Kết luận số 01 của Bộ Chính trị khóa XIII về tiếp tục đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Đây cũng là dịp để chúng ta học tập và noi gương đồng chí Nguyễn Trác, người con kiên trung của quê hương Quảng Nam với những phẩm chất cao quý của người chiến sĩ cách mạng trung kiên với Đảng, tận tụy với công việc, tận hiến với Nhân dân.

Nhân dịp này, thay mặt Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân tỉnh nhà, tôi trân trọng cảm ơn sâu sắc các đồng chí lãnh đạo, nguyên lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các ban, bộ, ngành, cơ quan Trung ương, Quân khu 5, các đơn vị, địa phương và đồng bào, đồng chí cả nước đã dành tình cảm, sự quan tâm, giúp đỡ quý báu cho Quảng Nam; mong muốn trong thời gian đến tiếp tục nhận được sự quan tâm, ủng hộ, giúp đỡ nhiều hơn nữa của các đồng chí, đồng bào cả nước đối với quê hương đồng chí Nguyễn Trác, nguyên Bí thư Tỉnh ủy.

Cuối cùng, kính chúc các đồng chí lãnh đạo, nguyên lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, quý vị đại biểu khách quý, thân nhân đồng chí Nguyễn Trác cùng toàn thể Nhân dân mạnh khỏe, hạnh phúc và thắng lợi.

Xin trân trọng cảm ơn!