3G: Nơi đồng tiền khôn nên đặt

Ảnh: Internet

Ngày nay, bạn có mua một cái xe với cửa sổ quay kính bằng tay không? Chắc là không. Thế còn một cái TV với ăng ten kỹ thuật tương tự và không có hộp điều khiển từ xa? Chắc cũng không nốt.

Thế còn công nghệ 2G cho thiết bị mạng không dây của bạn thì sao? Tốt hơn là nên suy nghĩ cẩn thận khi bàn tới đầu tư vào mạng không dây, thị trường toàn cầu đang trong một bước chuyển quan trọng vào các dịch vụ thế hệ mới...

Vào đầu và giữa thập niên 1990, các công nghệ mới thế hệ thứ 2 (2G) như GSM, TDMA và CDMA đang được tung ra để đem lại chất lượng thoại tốt hơn, công suất mạng cao hơn, cấu trúc mở và cách sử dụng phổ sóng hữu hiệu hơn. Tuy nhiên, bước chuyển tiếp này đã cần đến hơn 15 năm. Thực tế, ngay từ giữa thập niên 1990, những công nghệ phổ biến nhất với số khách thuê bao toàn cầu cao nhất vẫn là công nghệ tương đồng AMPS và TACS thuộc thế hệ thứ nhất. Trong khi đó, các nhà khai thác mới đang trở nên vững vàng tại các thị trường khắp thế giới và họ phải quyết định hoặc bắt đầu với công nghệ tương đồng và sau đó nâng cấp hoặc đi thẳng vào một trong các công nghệ 2G mới mẻ hơn.

Trong khi các nhà sản xuất tiếp tục mời chào thiết bị tương tự đem lại lợi nhuận cao, các nhà khai thác có tầm nhìn xa đã chọn các công nghệ GSM, TDMA hoặc CDMA để tăng tối đa thu nhập của họ. Một khi các công nghệ số được chứng tỏ và triển khai rộng rãi, các hãng vận hành trên khắp thế giới hiểu rằng mua thiết bị 1G – tuy với chi phí cơ bản thấp hơn nhờ tính tiết kiệm dựa trên qui mô lớn – chính là một quyết định kinh doanh và chiến lược kém cỏi khi xét tới vấn đề chi phí sở hữu trong dài hạn, các cơ hội tăng thu nhập và vị thế cạnh tranh trong thị trường. Chưa tới năm 1997, con số khách thuê bao công nghệ 2G đã vượt số khách thuê bao công nghệ 1G.

Hiện nay, những xu hướng tương tự đang diễn ra với các hệ thống di động thế hệ thứ ba (3G) như CDMA2000 và WCDMA (còn gọi là UMTS), nhưng với một tốc độ nhanh hơn. Trong khoảng 5 năm, các nhà sản xuất đã cho thấy đại đa số đầu tư của họ vào nghiên cứu và phát triển đã được phân bổ vào danh mục sản phẩm 3G, với phần lớn ngân sách lấy từ các nguồn thu nhập 2G của họ - GSM và CDMA. Tuy nhiên, cho đến nay sự có sẵn của thiết bị 3G chưa thay thế hẳn việc mua hoặc bán các thiết bị 2G.

Bước chuyển sang 3G

Phần lớn những vụ mua hạ tầng không dây ngày nay là nhắm vào các hệ thống 3G. Theo một dự báo của Gartner Dataquest về chi tiêu cho hạ tầng mạng toàn cầu, 54% tổng chi tiêu năm nay là dành cho CDMA2000 và WCDMA. Năm 2007, số chi tiêu sẽ tăng lên 61% cho 3G và sẽ tiếp tục tăng sau đó, trong khi đầu tư vào các công nghệ 2G như GSM sẽ tiếp tục giảm. Hình 1 cho thấy sự thay đổi trong chi tiêu qua thời gian nếu ta nhập chung WCDMA với CDMA2000 và TD-SCDMA, và GSM/GPRS/EDGE với TDMA và PDC.

Hình 1: Thu nhập hạ tầng toàn cầu xét theo công nghệ

Nguồn: Gartner Dataquest, Dự báo: Hạ tầng mạng di động toàn cầu, 2002-2009, tháng10/2005.

Trong một báo cáo vào tháng 7/2006, Strategy Analytics cũng tiên đoán hơn một nửa chi tiêu toàn cầu cho hạ tầng không dây 3G sẽ đổ vào CDMA2000 và WCDMA trong năm 2006 và cho thấy rằng các công nghệ 2G sẽ tiếp tục suy giảm sau đó.

Điều này có nghĩa rằng một khi các hãng vận hành dành một khoản đầu tư vào cơ sở hạ tầng mới, số lượng người sử dụng trên mạng sẽ tăng tương ứng. Tuy nhiên điều ấn tượng nhất là ở chỗ sự tiếp nhận các dịch vụ 3G đã vượt hơn hẳn bất kỳ lần giới thiệu công nghệ mới nào trong lịch sử ngành liên lạc không dây.

Hình 2: Tăng trưởng thuê bao toàn cầu tính theo công nghệ trong 19 quí đầu tiên của dịch vụ thương mại

Nguồn: CDMA Development Group và Strategy Analytics, tháng 6/2006

Ở qui mô toàn cầu, các nhà phân tích ước lượng rằng đến năm 2009, hai công nghệ 3G hàng đầu, CDMA2000 và WCDMA, sẽ chiếm 41% thị trường khách thuê bao và khối lượng thuê bao GSM từng một thời rất lớn sẽ giảm xuống đều đặn. Con số khách thuê bao 3G sẽ vượt hơn số khách 2G trong khoảng 10 năm kể từ khi bắt đầu có 3G – trong khi 2G phải mất 15 năm mới qua mặt được 1G.

Sức hút của tính kinh tế 3G

Đâu là lý lẽ cho các hãng vận hành đã đầu tư vào 3G thay vì 2G? Chắc chắn, các nhà khai thác có các luận điểm về thị trường, chính sách và kinh doanh của họ; nhưng với phần lớn, những lý do chủ yếu là tính kinh tế cải thiện hơn, công suất thoại cao hơn, sử dụng phổ sóng hữu hiệu hơn, và các dịch vụ dữ liệu hấp dẫn đem lại nhiều cơ hội thu nhập từ dịch vụ để bù cho thu nhập từ thoại đang suy giảm.

Thực tế, các nhà khai thác 3G tại các thị trường hàng đầu thế giới đã ghi nhận tốc độ tiếp thu nhanh và thu nhập tăng vọt nhờ tung ra các dịch vụ dữ liệu mới mẻ trên các mạng thế hệ mới của họ. Hầu hết các nhà khai thác 3G khắp thế giới đã ghi nhận thu nhập dữ liệu trung bình tính trên đầu người sử dụng (ARPU) nằm trong khoảng 10% đến 40% tổng thu nhập tính theo người sử dụng trên các mạng 3G của họ.

Tại những quốc gia như Cộng hòa Czech và Mỹ, nơi mà các dịch vụ CDMA2000 1xEV-DO đã có sẵn trên thị trường, các nhà khai thác sử dụng công nghệ GSM 2G nhận thấy họ khó mà cạnh tranh bằng giá cả và hiệu suất, điều đó buộc họ phải xem xét những kế hoạch mạnh mẽ để tung ra WCDMA và HSDPA. Người hưởng lợi từ sự cạnh tranh ngày càng tăng này là khách hàng và những doanh nghiệp vì họ có thể nhận được dịch vụ tốt hơn với giá rẻ hơn.

Tuy nhiên, bước chuyển sang 3G không bị giới hạn trong những quốc gia phát triển trên thế giới. Những thị trường đang lên cũng đang triển khai thiết bị 3G vì những lợi thế tương tự. Tại những thị trường này, dịch vụ thoại giá rẻ thường có ưu thế hơn dịch vụ dữ liệu băng rộng và chính tính kinh tế của 3G, nhất là trong các băng tần thấp, đã hỗ trợ quan điểm kinh doanh của các nhà khai thác đối với bước tiến vào CDMA2000 và WCDMA. Điều này đặc biệt đúng tại các thị trường đang phát triển, nơi mà các dịch vụ đường dây mặt đất không dễ gì có sẵn và việc sử dụng dịch vụ thoại là tương đối cao.

Tổng chi phí sở hữu mạng lưới

Một báo cáo của Signals Research phát hành tháng 5/2006 nói rằng tổng chi phí sở hữu (TCO) của một mạng 3G, trong khoảng thời gian 10 năm có lợi hơn 2G xét về vốn và chi phí vận hành; nên việc bắt đầu với một mạng 3G rõ ràng là tốt hơn.

Tại sao vậy? Đó là bởi vì 3G cho phép công suất dữ liệu và thoại cao hơn với cùng một khối lượng phổ sóng, cùng với những cải thiện trong chi phí vận hành. Ngay cả trong các trường hợp mà ở đó nhà vận hành GSM/GPRS/EDGE không chuyển sang 3G trong thời gian 10 năm, CDMA2000 vẫn có thể đạt 12% có lợi hơn trong một mức tăng trưởng thuê bao khiêm tốn và viễn cảnh tính theo phút sử dụng. Và khi viễn cảnh tính theo phút sử dụng và tăng trưởng thuê bao tăng lên, mức hiệu quả so với chi phí của CDMA2000 lại càng nổi bật hơn – với mức tiết kiệm chi phí từ 18% đến 23%.

Các công nghệ 3G ở tần số thấp (450 và 850 MHz) thậm chí còn hấp dẫn hơn khi xét đến chi phí ngày càng giảm. Ở những tần số này, các trạm cơ sở có thể truyền tín hiệu sóng đi xa hơn và độ phủ sóng được cải thiện cả ở trong lẫn bên ngoài nhà. Điều này có nghĩa rằng người ta cần ít trạm gốc hơn mà vẫn có được tầm phủ sóng mong muốn, và điều này nghĩa là nhà khai thác chỉ cần một mức đầu tư cơ bản thấp hơn.

3G tích luỹ

Các mạng 3G CDMA2000 và WCDMA có khả năng đem lại các dịch vụ dữ liệu băng rộng, thoại và đa truyền thông mới mẻ và sinh nhiều thu nhập mà đồng thời cũng đem lại tính kinh tế ưu việt cho vòng đời của mạng lưới. Ngày nay chắc chắn ta phải hồ nghi bất kỳ quyết định nào muốn khởi nghiệp với 2G.

Công nghệ GSM, mặc cho dấu ấn đáng kể của nó trên toàn cầu, là một công nghệ đã ra đời từ 15 năm trước. Trong một ngành thay đổi nhanh với đặc trưng là bước tiến kỹ thuật như vũ bão, GSM trong năm năm qua chẳng có được bao nhiêu cải tiến kỹ thuật hoặc nâng cao. Hơn một nửa đầu tư của thế giới vào hạ tầng không dây ngày nay là đổ vào thiết bị 3G và với gần 300 nhà khai thác đang cung cấp thành công những dịch vụ dữ liệu và thoại, nên đầu tư vào 3G không còn là một rủi ro nữa – đó là một ưu tiên cho những nhà sản xuất và vận hành nào muốn kiếm tiền, và nó là hướng đi tất yếu của cả ngành này.

       Lê Vân